Lý trí so sánh với các khái niệm liên quan Lý_trí

Lý trí với Logic

Thuận ngữ “Logic” hay “Logical” đôi khi được dung như 1 khái niệm  tương tự như khái niệm Lý trí(Reason) hay “rational”, hay đôi khi thuật ngữ “Logic” được xem như cách giải thích rõ rang nhất về Lý trí. Ví dụ trong kinh tế hiện đại, một lựa chọn Lý trí(rational choice) cũng được cho là 1 lựa chọn dựa trên logic(Logically consistent choice)

Tuy nhiên, Lý trí và Logic cũng được cho là khác biệt, mặc dù Logic là 1 khía cạnh quan trọng của Lý trí.Tác giả Douglas Hofstadter, trong “Gödel, Escher, Bach”, cũng mô tả sự khác biệt theo cách này. Logic được thực hiện trong 1 hệ thống còn Lý trí được thực hiện bên ngoài hệ thống bởi những phương pháp như các bước nhảy(skipping steps), thực hiện giật lùi(working backward), vẽ biểu đồ(drawing diagrams), nghĩ ra những ví dụ(looking at examples), dự đoán những gì diễn ra nếu bạn thay đổi các quy tắc trong hệ thống

Lý trí là 1 dạng suy nghĩ, trong khi đó từ “logic” là chỉ sự nỗ lực để mô tả những quy tắc hay tiêu chuẩn cái mà Lý trí hoạt động dựa trên nó, để mà Lý trí một cách có nguyên tắc(order reason) có thể được dạy. Những văn bản cổ xưa nhất được biết một cách rõ rang nhất về sự hoạt động của Lý trí dựa trên các quy tắc là các văn bản của triết gia Hy Lạp Aristotle, đặc biệt là 2 tác phẩm  Prior Analysis và Posterior Analysis. Mặc dù người Hy Lạp cổ không có khái niệm phân chia giữa Logic, ngôn ngữ và Lý trí, Aristotle đã đặt ra 1 khái niệm mới "syllogism" (syllogismos), lần đầu tiên xác định logic như là 1 lĩnh vực riêng biệt cần nghiên cứu. Khi mà Aristotle gọi “the logical”(hē logikē), thì ông đang ám chỉ một cái gì đó rông hơn là suy nghĩ Lý trí

Lý trí với suy nghĩ nguyên nhân – kết quả và suy nghĩ biểu tượng

Như được chỉ ra bởi các triết gia như Hobbes, Locke và Hume, một vài loài động vật cũng hoàn toàn có thể là 1 thể loại “Suy nghĩ liên tưởng”("associative thinking"), thậm chí là suy nghĩ nguyên nhân và kết quả. Một con chó mỗi lần bị đá, có thể học những dấu hiệu cảnh báo và tránh được việc bị đá trong tương lai, nhưng điều này không  có nghĩa là con chó có Lý trí trong bất kì khả năng hiểu chính xác về từ ngữ. Nó cũng không có nghĩa là con người người mà đang hành động theo tói quan và kinh nghiệm đang sử dụng Lý trí của họ

Lý trí con người yêu cầu nhiều hơn khả năng liên kết 2 tư tưởng, thậm chí nếu 2 tư tưởng đó có thể được mô tả bởi một con người có Lý trí như là nguyên nhân và kết quả, ví dụ như là việc nghĩ đến khói khi có những ký ức về lửa. Trong việc sử dụng Lý trí, mối liên hệ giữa lửa và khói sẽ buộc được nghĩ theo một cách cái mà có thể được giải thích, ví dụ như là nguyên nhân và kết quả. Trong sự giải thích của Lock, Ví dụ, Lý trí là sự sử dụng một tư tưởng thứ 3 để thực hiện so sánh này bằng cách suy luận(syllogism)

Một cách phổ biến hơn, Lý trí được hiểu trong sự hiểu biết là khả năng tạo và sử dụng hệ thống các ký hiệu cũng như là những chữ số, theo Charles Sanders Peirce, các ký hiệu đại diện cho 1 khái niệm, theo 1 thói quen, là sự kết nối đến lửa hoặc khói. Một ví dụ của hệ thống ký hiệu nhân tạo này là ngôn ngữ.

Sự kết nối giữa suy nghĩ Lý trí và các ký hiệu đã được nhấn mạnh theo nhiều cách khác nhau bởi các triết gia khác nhau. Thomas Hobbes mô tả sự sáng tạo "Markes, or Notes of remembrance" (Leviathan Ch.4) như một ngôn ngữ nói. Thomas Hobbes sử dụng từ “speech” như 1 từ tiếng Anh của từ Logos trong tiếng Hy Lạp để mà nói mà không cần có sự trao đổi thông tin. Khi mà có sự trao đổi thông tin, ngôn ngữ nói này(speech) trở thành ngôn ngữ thông thường, và những ký hiệu hay biểu tượng hay những vật gợi nhớ(remembrance) được Hobbes gọi là "Signes". Quay trở lại thời kì trước, mặc dù Aristotle là người có ý tưởng cái mà cho rằng chỉ có con người mới có Lý trí(Logos), ông cũng cho rằng nhiều loài động vật có trí tưởng tượng, có sự nhận thức thông qua các giác quan, sẽ có một cái gần như là Lý trí(Logos) và trí thông minh(nous), và thậm chí dùng từ “logos” trong tầm quan trọng để mô tả bản chất cái mà những động vật này có thể nhận thức trong trường hợp này

Lý trí, sự tưởng tượng, sự bắt chước, và ký ức

Lý trí và trí tưởng tượng cần 1 quá trình hoạt động tâm trí tương tự. Tưởng tượng không chỉ được tìm thấy ở loài người. Ví dụ như, Aristotle tuyên bố rằng phantasia(Trí tưởng tượng: cái mà có thể giữ các hình ảnh hay phantasmata) và phronein(một loại suy nghĩ có thể nhận xét và hiểu biết trong một vài các giác quan) cũng tồn tại trong một vài loài động vật. Theo ông, Cả hai loại trên có liên hệ với khả năng hiểu biết của các loài động vật, cái mà tập trung tất cả thông tin từ các giác quan khác nhau và giải thích sự sắp đặt của các vật được nhận biết mà không có sự phân biệt phổ biến(distinguishing universals), và không có sự cân nhắc hay logos. Nhưng đây vẫn chưa  phải là Lý trí(reason), vì trí tưởng tượng của con người là rất khác.

Những tác phẩm gần đây của  Terrence DeaconMerlin Donald, viết về nguồn gốc của ngôn ngữ, xem xét mối liên hệ của Lý trí với ngôn ngữ và sự bắt chước(mimesis). Đặc biệt hơn họ mô tả khả năng tạo ra ngôn ngữ như 1 phần của mô hình nội tại thực tế cụ thể của con người(an internal modeling of reality specific to humankind). Các phần còn lại là ý thức và trí tưởng tượng hay sức mạnh tâm linh(fantasy). Ngược lại, những người ủng hộ hiện đại cho khuynh hướng di truyền ngôn ngữ bao gồm Noam Chomsky và Steven Pinker, là những người đối lập với Donald và Deacon.

Khi mà Lý trí là một dạng suy nghĩ mang tính biểu tượng, đặc biệt đối với con người, vì vậy có thể suy luận rằng con người có 1 khả năng đặc biệt để duy trì 1 nhận thức rõ ràng về các biểu tượng(icon) khác nhau hay những hình ảnh và những sự thật cái mà họ đại diện

Bắt đầu với tác giả hiện đại, Merlin Donald viết:

Một con chó có thể nhận thức được “ý nghĩa thực”(“meaning”) của 1 trận chiến giả như thật của con người, nhưng nó không thể mô tả lại thông tin đó hay không phân biệt được sự diễn tả từ 1 trận chiến thực. Những con vượn được huấn luyện có thể phân biệt điều này. Vì vậy, những đứa trẻ có thể phân biệt điều này từ rất sớm, họ có thể phân biệt một cách dễ dàng giữa 1 sự kiện được đóng giả và 1 sự kiện thật của nó.

Trong những mô tả cổ xưa, mô tả tương đương về năng lực trí nảo này là eikasia, trong triết học của Plato. Đây là khả năng để nhận thức liệu 1 tư tưởng có là 1 hình ảnh phản chiếu của một cái khác, có 1 sự giống nhau nhất định nhưng không giống hoàn toàn và vì vậy cho phép con người nhận thức được 1 giấc mơ, 1 ký ức hay 1 hình ảnh phản chiếu trong gương không phải là thật như nó là. Những gì mà Klein đề cập đến dianoetic eikasia là eikasia bao gồm những suy nghĩ và những hình ảnh phản chiếu trong trí não như là những biểu tượng trí não đó, ký hiệu, signes, và tất cả những ký hiệu này được xem như định nghĩa của Lý trí. Giải thích Lý trí từ hướng này: Suy nghĩ của con người là một cách đặc biệt cái mà chúng ta thường hiểu những vật có thể nhìn thấy được như họ là những hình ảnh phản chiếu của “đối tượng trong suy nghĩ”  chúng ta có thể nhận thức được như là “nền tảng”(“foundation”) (hypothēses trong Hy Lạp cổ đại). Suy nghĩ này(dianoia) là “…1 hoạt động cái mà bao gồm việc tạo ra khu rừng rộng lớn và lan tỏa của thế giới có thể nhìn thấy được(visible world) và hoạt động này phụ thuốc vào số lượng lớn chính xác những noēta.”

Cả Merlin Donaldvà các học giả của trường phái Socractic như Platon và Aristotle nhấn mạnh tầm quan trọng của sự bắt chước(mimesis), thường được dịch ra tiếng Anh là “imitation” hay “representation”, Donald viết:

Sự bắt chước đặc biệt được tìm thấy trong loài khỉ và vượn [… nhưng…] “Mimesis” có sự khác biệt quan trọng với “imitation” và “mimicry” ở chỗ nó có sự sáng tạo của việc mô tả một cách có ý thức. […] “Mimesis” không hoàn toàn được kết nối với giao tiếp bên ngoài.

“Mimēsis” là 1 khái niệm, hiện tại đang được phổ biến trong các cuộc tranh luận học thuật, đây cũng là khái niệm đạc biệt phổ biến trong các nghiên cứu của Platon, Aristotle, nó được thảo luận chủ yếu trong Poetics.Trong văn bản của Michael Davis về lý luận con người trong vấn đề này. Nó là 1 phẩm chất đặc biệt trong các hành động của con người, đó là bất cứ khi nào chúng ta chọn những việc chúng ta làm, Chúng ta tự tưởng tượng 1 hành động như là chúng ta đang kiểm tra nó từ bên ngoài. Sự dự đoán(intention) không là gì khác ngoài 1 hành động được tưởng tượng, phản ánh vào tâm trí(internalizings) cái ngoại cảnh. Vì vậy, tất cả hành động là sự bắt chước(imitation) của hành động, nó là “poetic”… .

Donald như Plato(và Aristotle, đặc biệt trong “On Memory and Recollection”), nhấn mạnh sự đặc biệt của con người trong việc tự khởi đầu của suy xét thông qua hoạt động của trí não(mental). Một thuật ngữ Hy Lạp cổ anamnesis, thông thường được dịch là “sự nhớ lại”(“recollection”) là khác với “mneme” hay “ký ức” (“memory”). Ký ức(Memory), có ớ một số loài động vật, là khả năng ý thức(consciousness) không chỉ là những gì diễn ra trong quá khứ mà còn là một cái gì diễn ra trong quá khứ, nói cách khác, nó là một loại “eikasia”, “… nhưng không có loài nào ngoại trừ con người có khả năng “nhớ lại”(“recollect”). “Sự nhớ lại”(“Recollection”) là 1 nỗ lực có chủ ý để tìm kiếm và gợi lại những điều đã từng biết. Klein viết “ Để nhận ra việc có một việc gì chúng ta đã quên  nghĩa là bắt đầu “Sự nhớ lại”(“recollecting”). Donald gọi hiện tượng tương tự là “autocueing”, cái mà Donald giải thích như sau: “ Cái hành động bắt chước(Mimetic acts) là hành động tái tạo trên những cái cơ bản của nội tâm(internal), tín hiệu tự tạo(self-generated cues). Điều này cho phép nhớ lại một cách tự giác sự mô tả bắt chước, không cần sự giúp đỡ từ những tín hiệu bên ngoài – đây có thể là thể loại mô tả suy nghĩ xuất hiện sớm nhất của con người.”

Trong 1 bài báo nổi tiếng thời hiện đại, một nhà viết truyện tưởng tượng và cũng là nhà ngôn ngữ học J.R.R. Tolkien viết trong tiểu luận của ông ấy "On Fairy Stories" rằng thuật ngữ “tưởng tượng”(“ fantasy”) và “phép thuật”(“ enchantment”) được xem như không chỉ là “… sự thỏa mãn ham muốn sâu thẳm trong con người nguyên thủy…”  mà còn là “…nguồn gốc của ngôn ngữ và nhận thức.”

Phương pháp lý luận Logic và sự biện luận

Xem xét các nhóm trong sự phân chia triết học truyền thống thì có 2 nhóm là suy luận diễn dịch(deductive reasoning) và suy luận quy nạp(inductive reasoning). Logic quy củ(Formal Logic) đã được mô tả như Khoa học về sự suy luận. Việc nghiên cứu suy luận quy nạp được thực hiện trong lĩnh vực được gọi là Logic thông thường(informal Logic) hay suy nghĩ phê phán(critical thinking)

Suy luận diễn dịch(Deductive reasoning)

Một cái phân khu nhỏ của Triết học là Logic học. Logic học nghiên cứu về cách hoạt động của Lý trí. Diễn dịch là một cách hoạt động của Lý trí mà tại đó kết luận theo sau một cách hợp lý từ những nhận định được nêu ban đầu.Diễn dịch cũng là 1 kết luận đạt được bởi 1 quá trình diễn dịch hợp lý. Một ví dụ cơ bản của suy luận diễn dịch là:

Tiền đề 1: Tất cả mọi người đều phải chết

Tiền đề 2: Socrate là người

Kết luận: Socrate phải chết

Tính hợp lý trong cách suy luận trên là đúng, vì không thể có sự Tiền đề 1 và 2 đúng, khi kết luận là sai

Suy luận quy nạp(Inductive reasoning)

Quy nạp là 1 hình thức sự rút ra kết luận về đối tượng có thể quan sát được, có thể là đặc biệt hay thông thường, dựa trên sự quan sát trước đó. Nó được sử dụng để kết luận bản chất hay mối quan hệ của các sự vật dựa trên những quan sát trước đó hay kinh nghiệm, hay để xây dựng nên những kết luận mang tính phổ quát hay những định luật(laws) dựa trên những số lần quan sát nhất định các hoạt động của những hiện tượng bí ẩn(phenomenal) lặp đi lặp lại nhiều lần.

Suy luận quy nạp đối lập(Inductive reasoning) hoàn toàn với suy luận diễn dịch(Deductive reasoning) ở chỗ Tính chính xác của tiền đề(premise) không đảm bảo tính chính xác của kết luận(conclusion). Thay vào đó, kết luận của 1 suy luận quy nạp được rút ra bởi mức độ xảy ra(degree of probability) của hiện tượng. Và từ đó, 1 kết luận trong suy luận quy nạp sẽ chứa nhiều thông tin so với tiền đề của nó. Vì vậy, phương pháp suy luận quy nạp là 1 phương pháp tăng dần(ampliative).

Một ví dụ xưa của suy luận quy nạp đến từ nhà triết học theo phái duy nghiệm(Empiricism) David Hume:

Tiền đề(Premise): Mặt trời luôn mọc từ Phương Đông từ trước tới giờ

Kết luận(Conclusion): Mặt trời cũng sẽ mọc từ phương Đông vào ngày mai

Suy luận lựa chọn(Abductive reasoning)

Suy luận lựa chọn(Abductive reasoning), hay sự suy luận với sự giải thích hợp lý nhất, là 1 hình thức của suy luận quy nạp, vì kết luận của nó không được rút ra một cách chắc chắn từ các tiền đề và không thề sử dụng đối với những vật không nhìn thấy được. Cái mà phân biệt giữa suy luận lựa chọn(abductive reasoning) với các loại suy luận khác là nỗ lực để ủng hộ một cách chủ quan 1 kết luận so với các kết luận khác, bởi nỗ lực cố làm sai một cách chủ quan các kết luận khác hay bởi việc mô tả khả năng có thể xảy ra của kết luận được ủng hộ, gửi nhiều hơn hay ít hơn những giả định(assumption) gây tranh cãi. Ví dụ, khi 1 bệnh nhân thể hiện 1 triệu chứng rõ ràng nào đó, có thể có rất nhiều nguyên nhân được đặt ra, nhưng một trong những nguyên nhân này được chỉ ra vì 1 ý thích chủ quan bỏ qua những nguyên nhân khác thậm chí các nguyên nhân này có khả năng xảy ra cao hơn.

Suy luận loại suy(Analogical reasoning)

Suy luận loại suy(Analogical reasoning) là 1 suy luận sai từ 1 sự vật cá biệt này đến 1 sự vật cá biệt khác. Chúng ta xét ví dụ sau:

Tiền đề 1: Socrate là 1 người và phải chết

Tiền đề 2: Platon là 1 người

Kết luận:  Platon phải chết

Suy luận loại suy(Analogical reasoning) có thể xem là 1 hình thức của suy luận quy nạp(inductive reasoning) nếu xét trong 1 trường hợp duy nhất, nhưng nếu định sử dụng nó trong suy luận quy nạp thì nó là 1 trường hợp chưa thể chấp nhận được, vì suy luận quy nạp(inductive reasoning) thường dùng rất nhiều trường hợp để suy luận từ cái cá biệt(particular) đến cái chung(general). Suy luận loại suy(Analogical) thường dẫn đến một cái kết luận sai. Ví dụ:

Tiền đề 1: Socrate là một con người và là đàn ông

Tiền đề 2: Beyoncé là 1con người

Kết luận: Beyoncé là đàn ông

Suy luận ngụy biện(Fallacious reasoning)

Suy luận sai lầm(Flawed reasoning) trong việc lý luận được biết như là suy luận ngụy biện(Fallacious reasoning). Một cái suy luận sai trong việc lý luận có thể là vì nó mắc phải một sai lầm chuẩn(formal fallacy) hay sai lầm thông thường(informal fallacy)

Một sai lầm chuẩn bị mắc phải khi có 1 vấn đề với hình thức(form), cấu trúc(structure) của việc lý luận. Từ “chuẩn”(“formal”) là chỉ cái “hình thức” (“form”) của việc lý luận. Một lập luận(argument) chứa 1 sai lầm chuẩn(formal fallacy) sẽ thường là vô giá trị(invalid).

Một sai lầm thông thường(informal fallacy) là 1 lỗi bị mắc phải khi có 1 vấn đề với nội dung(content) hơn là với cấu trúc(structure) của một lập luận

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lý_trí http://cogsci.uwaterloo.ca/Articles/Pages/%7FAbduc... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/346240/p... http://www.merriam-webster.com/dictionary/logic?sh... http://www.merriam-webster.com/dictionary/rational http://www.merriam-webster.com/dictionary/reason http://www.merriam-webster.com/dictionary/reasonab... http://www.sciencedaily.com/releases/2002/01/02013... http://socrates.berkeley.edu/~hdreyfus/rtf/Limits_... http://www.perseus.tufts.edu/hopper/text?doc=Perse... http://www.perseus.tufts.edu/hopper/text?doc=Perse...